Đà Nẵng: Làm tốt công tác rà soát, thống kê người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy

Nhằm đánh giá đúng thực trạng tình hình người nghiện ma túy (NNMT), người sử dụng trái phép chất ma túy (NSDTPCMT) trên địa bàn thành phố, ngày 25/02/2019, Giám đốc CATP Đà Nẵng đã ban hành Kế hoạch số 333/KH-CAPT-PTM-PCSMT về rà soát, thống kê, lập hồ sơ, nhập số liệu, thông tin vào phần mềm quản lý NNMT, NSDTPCMT trên địa bàn thành phố. CATP đã tổ chức hội nghị triển khai Kế hoạch 333 và hướng dẫn các đơn vị, địa phương thực hiện nhằm đạt được yêu cầu đề ra là khách quan, khoa học, chính xác, đầy đủ, kịp thời, phục vụ hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm.

08/08/2019 | Article Rating

Thực hiện chỉ đạo của CATP, công an các đơn vị, địa phương đã xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Công an các quận, huyện, phường, xã tăng cường công tác nắm tình hình, quản lý địa bàn, quản lý đối tượng, kiểm tra, thử test đối tượng nghi vấn để phát hiện NNMT, NSDTPCMT mới. Đồng thời tổ chức phát động phong trào Toàn dân tham gia phát giác, cung cấp thông tin về người có biểu hiện, dấu hiệu nghi vấn để phát hiện NNMT, NSDTPCMT mới để lập hồ sơ quản lý. Thường xuyên tiến hành kiểm danh, kiểm diện số đã có hồ sơ quản lý, nhất là số đối tượng nghiện, sử dụng ma túy có biểu hiện hoạt động phạm tội về hình sự, ma túy; số người sau cai nghiện có nguy cơ tái nghiện, số người không tham gia chương trình cai nghiện tại cộng đồng… để quản lý chặt chẽ, phòng ngừa đối tượng vi phạm pháp luật, tái nghiện.

Công an TP Đà Nẵng kiểm danh, kiểm diện các đối tượng nghiện ma túy có hồ sơ quản lý

Thực hiện Kế hoạch 333, công an các đơn vị, địa phương đã phối hợp, trao đổi, chia sẻ thông tin về NNMT, NSDTPCMT, đã tiến hành cập nhật đầy đủ số liệu, thông tin vào phần mềm quản lý. Ngoài ra, đã tổ chức các đợt ra quân, kiểm tra, xử lý NNMT, NSDTPCMT  theo mệnh lệnh của Giám đốc CATP, qua đó phát hiện, xử lý nhiều trường hợp vi phạm. Song song Kế hoạch 333, CATP cũng đã ban hành Kế hoạch số 87 về cao điểm kiểm tra, xử lý NSDTPCMT và Kế hoạch số 222 về phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật tại các vũ trường, quán bar, karaoke, pub… trên địa bàn thành phố, đồng thời thường xuyên đôn đốc và thành lập các tổ kiểm tra, hướng dẫn để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những tồn tại, thiếu sót của công an các đơn vị, địa phương.

Qua gần 04 tháng quyết liệt thực hiện Kế hoạch, đến ngày 15/6/2019, trên địa bàn thành phố có 1908 NNMT có hồ sơ quản lý, tăng 31,3% so với năm 2018 (số NNMT ngoại tỉnh là 141 người). Trong đó phân tích kỹ theo giới tính, độ tuổi, việc làm, nghề nghiệp, tiền án tiền sự, diện đối tượng (nghiện mới, tái nghiện, loạn thần), loại ma túy sử dụng, hình thức xử lý ((1). Cách ly ra khỏi cộng đồng 639 người, gồm: bị tạm giam, tạm giữ và chấp hành án; đang cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc; đang ở cơ sở giáo dục; điều trị loạn thần tại bệnh viện tâm thần. (2). Đang ở cộng đồng 1269 người, gồm: chờ quyết định của tòa án tập trung cai nghiện bắt buộc; đang bị áp dụng biện pháp quản lý sau cai; đang bị áp dụng biện pháp quản lý giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đang điều trị methadone; bị xử lý hình sự cho tại ngoại; trốn thi hành quyết định tập trung cai nghiện bắt buộc).

Cơ sở điều trị bằng Methadone

Về số NSDTPCMT, toàn thành phố có 1938 người, tăng 813 (73%) so với năm 2018, trong đó người ngoại tỉnh 558 người, chiếm 28,8%. Số liệu này cũng được phân tích gần giống như NNMT nêu trên (không có diện đối tượng và phần hình thức xử lý đang ở cộng đồng được chia thành: xử lý hình sự cho tại ngoại, cảnh cáo giao cho gia đình quản lý theo Nghị định 167, phạt tiền theo Nghị định 167).

Qua rà soát, thống kê cho thấy tình hình NNMT, NSDTPCMT trên địa bàn thành phố diễn biến phức tạp, gia tăng (tổng số nhiều hơn 1268 người, 49,2% so với năm 2018), số NNMT, NSDTPCMT đang ở cộng đồng nhiều (3480 người), hoạt động lưu động hoặc không có nơi cư trú ổn định gây khó khăn trong công tác quản lý. Nguyên nhân sử dụng ma túy chủ yếu do bị bạn bè rủ rê; do buồn chán, tò mò muốn thử cho biết (chiếm 84,5%), địa điểm sử dụng ma túy chủ yếu ở các vũ trường, quán bar, karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ... (chiếm 56,6%). Hầu hết NNMT, NSDTPCMT là thanh niên, trong độ tuổi học tập, lao động (người từ đủ 18 đến 30 tuổi chiếm 64,9%), chủ yếu không có việc làm hoặc có việc làm không ổn định. Số NNMT, NSDTPCMT có tiền án, tiền sự chiếm tỉ lệ tương đối cao (723 người, chiếm 18,8%), nếu không có biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự. Xu hướng sử dụng ma túy tổng hợp ngày càng tăng và chiếm tỉ lệ cao (2971 người, chiếm 77,2%; hoạt động phạm tội liên quan đến ma túy tổng hợp chiếm 98%  tổng số vụ bắt giữ 6 tháng đầu năm 2019), trong khi các loại ma túy này thường tạo ra ảo giác mạnh và kéo dài, người sử dụng khó kiểm soát được nhận thức và hành vi, nguy cơ cao dẫn đến thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, gây ra nhiều hệ lụy xấu cho gia đình và xã hội (hiện có 104 NNMT, NSDTPCMT có biểu hiện loạn thần, chiếm 2,7%). Thêm nữa, theo thống kê toàn thành phố có 202 NSDTPCMT dạng thảo mộc “cỏ Mỹ”, tuy nhiên vẫn chưa có test thử đối với loại ma túy này nên không có cơ sở để xử lý các đối tượng, dẫn đến tình trạng lôi kéo thêm đối tượng sử dụng, gây tâm lý bất an, bức xúc trong nhân dân.

Đáng lưu ý, cũng qua rà soát, thống kê, thành phố đã loại ra khỏi diện quản lý 2220 NNMT và NSDTPCMT. Số này bao gồm NNMT đã thực hiện xong hình thức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã chấm dứt tham gia điều trị methadone trong thời hạn 02 năm; người đã được cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận chấp hành xong quyết định quản lý sau cai tại nơi cư trú hoặc Giấy chứng nhận chấp hành xong quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn có thời hạn trên 02 năm kể từ ngày chấp hành xong, đến thời điểm rà soát, thống kê chưa có tài liệu chứng minh người đó còn sử dụng ma túy. Tuy nhiên, để kiểm soát chặt chẽ, trong số 2220 người loại ra khỏi diện quản lý nêu trên, công an các đơn vị, địa phương đã rà soát, thử test 794 người có nguy cao, nghi vấn sử dụng ma túy, đáng mừng là chỉ phát hiện 12 người dương tính với ma túy (chiếm 1,5%).

Tóm lại, nhờ triển khai một cách bài bản, đồng bộ, quyết liệt, công tác rà soát, thống kê NNMT, NSDTPCMT, CATP Đà Nẵng đã nắm chắc và có giải pháp quản lý số người này, trên cơ sở đó thực hiện công tác phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy. Có thể coi đây là một điển hình để các địa phương trong toàn quốc học tập kinh nghiệm, nhân rộng cách làm này sao cho phù hợp với địa bàn mình./.

Lê Minh Sơn