Một số kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm về ma túy các tỉnh Tây Bắc

24/03/2016 | Article Rating
Năm 2015 cả nước phát hiện và bắt giữ 17.705 vụ với 27.342 đối tượng phạm tội về ma túy; Tang vật thu giữ 998 kg Heroin, 55kg Cocain, 101 kg Thuốc phiện, 630 kg + 417 nghìn viên MTTH. Riêng 6 tỉnh tuyến Tây Bắc phát hiện và bắt giữ 1.862 vụ (chiếm 10,5% cả nước), 2.766 đối tượng (chiếm 10% cả nước); Tang vật thu giữ 302 kg Heroin (chiếm 30% cả nước), 33 kg Thuốc phiện (chiếm 32% cả nước) và 2,8 kg + 300 nghìn viên MTTH. Điển hình như các vụ: Tháng 02/2015 Công an Cao Bằng bắt 1 đối tượng vận chuyển 156 bánh Heroin; Tháng 02/2015 Công an Thái Nguyên bắt 2 đối tượng vận chuyển 200 bánh Heroin; Tháng 01/2015 Cục Cảnh sát ĐTTP về ma túy bắt 3 đối tượng vận chuyển 94 bánh Heroin; Tháng 04/2015 Công an Lào Cai bắt 3 đối tượng (quốc tịch Lào), vận chuyển 227 bánh Heroin; Tháng 07/2015 Cục Cảnh sát ĐTTP về ma túy bắt 6 đối tượng vận chuyển 490 bánh Heroin… Đặc biệt, thực hiện kế hoạch đấu tranh chuyên án 279-LL tại địa bàn các huyện Mộc Châu, Vân Hồ, tỉnh Sơn La, lực lượng chức năng đã tiêu diệt và bắt giữ 12 đối tượng, thu giữ 410 bánh Heroin, 16 nghìn viên MTTH, 17 khẩu súng và hàng nghìn viên đạn các loại.
Nhìn vào số liệu trên cho thấy số vụ và số đối tượng bị phát hiện, bắt giữ không có đột biến song số ma túy bị phát hiện và thu giữ tăng cao. Các vụ mua bán, vận chuyển hàng chục kg MTTH, hàng trăm bánh Heroin bị phát hiện và bắt giữ ngày càng nhiều. Như vậy có thể nói cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên cả nước nói chung và các tỉnh Tây Bắc nói riêng tiếp tục còn tiềm ẩn và diễn biến hết sức phức tạp.
Qua công tác đấu tranh thời gian qua nổi lên một số nguyên nhân chính sau đây:
* Địa bàn này hầu hết là người dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí còn thấp, nhận thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế, đời sống còn nhiều khó khăn, dễ bị các thế lực lợi dụng, lôi kéo vào con đường phạm tội.
* Nguồn ma túy thẩm lậu từ nước ngoài vào Việt Nam tương đối dễ dàng; Việt Nam có đường biên giới chung với Lào dài hơn 2.300 km kéo dài từ Điện Biên đến Kon Tum, trong khi chúng ta xác định nguồn ma túy chủ yếu là từ khu vực “tam giác vàng” qua Lào vào Việt Nam. Mặt khác do mua bán ma túy là “siêu lợi nhuận” chính là động lực để lôi kéo một số đối tượng lười lao động, thích hưởng thụ và một bộ phận quần chúng nhân dân có đời sống khó khăn đi vào con đường phạm tội.
* Do đặc điểm tâm lý, thói quen, lối sống của đồng bào các dân tộc thiểu số chủ yếu theo kiểu gia tộc, dòng họ, khoảng trống dân cư rộng, đặc điểm sản xuất du canh… nên việc thâm nhập vào địa bàn, tiếp xúc với người dân để tuyên truyền, vận động, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trong phòng ngừa và đấu tranh của lực lượng Công an gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có địa bàn còn là “vùng trắng”, các lực lượng chức năng chưa thâm nhập vào được.
* Công tác tổ chức đấu tranh chưa đáp ứng được yêu cầu. Do địa bàn rộng, đi lại khó khăn song biên chế tổ chức ở một số đơn vị Công an cơ sở, nhất là ở cấp huyện còn thiếu. Thực hiện thông tư 28 của Bộ Công an, rất nhiều đơn vị Công an cấp huyện đã sát nhập đội ma túy với đội kinh tế và có nơi là cả lực lượng cảnh sát môi trường, vì vậy việc “chuyên tâm” cho công tác phòng, chống ma túy còn hạn chế.
* Hệ thống chính trị ở cơ sở tuy đã được quan tâm, từng bước được kiện toàn song thực tế hiệu lực, hiệu quả hoạt động vẫn còn hạn chế, chưa tạo được phong trào quần chúng mạnh mẽ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; vai trò trách nhiệm của một số đảng viên, cán bộ xã, bản chưa cao, cá biệt ở một số nơi còn làm ngơ, bao che cho hoạt động tội phạm, thậm chí còn tham gia mua bán, vận chuyển ma túy.
* Cùng lúc trên địa bàn triển khai thực hiện nhiều Phương án, Kế hoạch chuyên đề về phòng, chống ma túy của cả Trung ương và của địa phương, do đó có sự chồng chéo, bị chi phối về công tác chỉ đạo, phân công lực lượng, các nguồn lực bị phân tán, không tập trung.
Tại địa bàn tỉnh Sơn La, có những thời điểm các lực lượng chức năng thực hiện song trùng nhiều Phương án, Kế hoạch như: Kế hoạch SH.09 của tỉnh Công an tỉnh Sơn La; Phương án 592 của Tổng cục cảnh sát; Kế hoạch 1048 của Bộ đội biên phòng. Hiện nay Công an tỉnh Sơn La đang tiếp tục thực hiện phương án 279 (năm thứ 3) và Tổng cục cảnh sát đang triển khai thực hiện kế hoạch 7454 (theo biên bản ghi nhớ của đồng chí Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát, Bộ An ninh, Lào và Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát, Bộ Công an, Việt Nam.
Trong thực hiện Phương án 592 từ 2010 đến 2013 tại 2 địa phương là Hòa Bình và Sơn La, đã thực hiện rất nhiều nội dung trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân như: Vận động, đưa người nghiện ma túy đi cai nghiện tại các trung tâm; Vận động nhân dân tự giác giao nộp vũ khí, công cụ hỗ trợ; Tổ chức các hoạt động giao lưu, kết nghĩa, tặng quà, khám chữa bệnh, phát thuốc miễn phí; Vận động đối tượng truy nã ra đầu thú; Gọi hỏi, răn đe, giáo dục cá biệt đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội hoặc có khả năng, điều kiện phạm tội… Trong thực hiện Phương án 279 từ tháng 07/2013 đến nay riêng tại địa bàn 2 huyện Mộc Châu và Vân Hồ của Sơn La, các lực lượng chức năng cũng rất coi trọng công tác tuyên truyền, vận động quần chúng như: Tổ chức nhiều hội nghị nhân dân, tổ chức ký cam kết không vi phạm pháp luật, không bao che, tiếp tay cho tội phạm, phát giác, tố giác tội phạm; Nói “không” với ma túy; Xây dựng mô hình “Đội thanh niên xung kích bảo vệ ANTT”; Tổ chức thăm, tặng quà, khám chữa bệnh, phát thuốc miễn phí; Tổ chức tập huấn, đầu tư các trang bị (đầu đĩa, tăng âm, loa truyền thanh…) để phục vụ công tác tuyên truyền…
Tuy nhiên với hình thức, cách làm và hiệu quả như trên vẫn chưa đáp ứng được với thực tế yêu cầu đặt ra.
Dự báo tình hình ma túy và tội phạm ma túy trong thời gian tới trong cả nước nói chung và trên tuyến Tây Bắc nói riêng tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp và tiềm ẩn khó lường; Tội phạm mang tính chất quốc tế sẽ ngày càng gia tăng, cấu kết chặt chẽ hình thành các đường dây với tính chất, phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, quyết liệt và manh động hơn; Số đối tượng sử dụng vũ khí nóng để chống trả ngày càng gia tăng; Lượng ma túy bọn chúng mua bán, tàng trữ, vận chuyển ngày càng lớn… nên công tác phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy, trong đó có công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia đấu tranh và tố giác tội phạm về ma túy phải đổi mới cả về nội dung, hình thức và cách làm phù hợp để đáp ứng yêu cầu thực tế đòi hỏi.
Để công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới, chúng tôi xin nêu và đề xuất một số cách làm, kinh nghiệm và bài học sau đây:
Một là: Mọi hoạt động nghiệp vụ, trong đó có công tác tuyên truyền, công tác vận động quần chúng phải đặt dưới sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến huyện và tới tận xã, bản; sự vào cuộc của các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội với phương châm “lấy cơ sở là chính”; sự đồng tình, ủng hộ sự giúp đỡ của các già làng, trưởng bản, những người có uy tín và đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là sự nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, vất vả của cán bộ, chiến sỹ và những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tại địa bàn.
Hai là: Công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tại địa bàn cơ sở phải căn cứ vào từng địa bàn, từng đối tượng để có nội dung, hình thức, cách làm cho phù hợp.
- Ở các khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, do trình dộ dân trí còn thấp, hiểu biết còn hạn chế nên khi tuyên truyền, vận động cần phải nghiên cứu về phong tục, tập quán, đời sống, tiếng nói, đặc điểm tâm lý của nhân dân trên địa bàn. Công tác cán bộ là một yếu tố hết sức quan trọng, nó quyết định sự thành công hay thất bại của công tác tuyên truyền, vận động. Nên sử dụng những người cán bộ là con em đồng bào các dân tộc ở địa bàn, phát huy vai trò của người cao tuổi, già làng, trưởng bản, người có uy tín… có thể xây dựng chính những người này để làm công tác tuyên truyền, vận động.
- Lồng ghép các nội dung tuyên truyền, vận động về phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy với việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân, hướng dẫn, phổ biến kiến thức về phát triển chăn nuôi, trồng trọt, chuyển đổi thay thế vật nuôi, cây trồng có năng xuất cao; Kết hợp tuyên truyền, vận động về phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy với tuyên truyền về tác hại của ma túy và cách phòng trách.
- Đối tượng của công tác tuyên truyền, vận động có nhiều người không biết đọc, biết viết chữ phổ thông, do vậy việc tuyên truyền nên áp dụng nhiều hơn các hình thức kẻ, vẽ pano, áp phích, tờ gấp, tờ rơi… mang tính hình ảnh minh họa, dễ hiểu. Tập trung nhiều vào các loại hình tuyên truyền, vận động dưới dạng tiểu phẩm, sân khấu hóa; Sử dụng hệ thống loa truyền thanh ở xã, bản và phối hợp với các cơ quan phát thanh, truyền hình của Trung ương và địa phương để thực hiện. Các ấn phẩm tuyên truyền nên công khai niêm yết ở những nơi dễ nhìn, dễ thấy, những nơi công cộng, nơi có nhiều người qua lại như nhà trường, nhà văn hóa thôn, bản, nhà sinh hoạt cộng đồng, chợ trung tâm, cửa hàng tạp hóa…
- Phối hợp với các nhà trường để lồng ghép nội dung phòng, chống tội phạm, phòng, chống ma túy vào nội dung giảng dạy, các hoạt động ngoại khóa đối với giáo viên và học sinh.
- Chú trọng việc tuyên truyền, vận động đặc thù, cá biệt với từng đối tượng cụ thể như Người cao tuổi, Thanh niên, Phụ nữ, Học sinh, Trẻ em, Người dân hàng ngày đi làm nương rẫy… Mỗi đối tượng cần áp dụng nội dung, hình thức và thời gian tuyên truyền, vận động cho phù hợp.
- Kết hợp tuyên truyền, vận động với với các biện pháp nghiệp vụ khác như gọi hỏi, răn đe, giáo dục cá biệt đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội hoặc có khả năng, điều kiện phạm tội.
- Sau mỗi đợt, mỗi buổi tuyên truyền, vận động nên lắng nghe phản hồi của người dân xem họ nghe những gì, hiểu như thế nào, nội dung tuyên truyền, vận động có phù hợp không, cần đổi mới như nhế nào để đáp ứng được yêu cầu thực tiễn ở địa phương. Định kỳ nên có sơ kết, tổng kết về chuyên đề này; những biện pháp hay, cách làm hiệu quả cần phát huy và nhân rộng, những biện pháp và cách làm kém hiệu quả, không phù hợp phải rút kinh nghiệm và đổi mới.
Ba là: Giáo dục và thuyết phục cá biệt đối với các đối tượng đã ra tự thú, đầu thú để chính họ vận động các đối tượng khác ra đầu thú.
Đối với các đối tượng qua vận động đã ra tự thú, đầu thú, căn cứ hành vi phạm tội và đơn xin bảo lãnh của gia đình các đối tượng, đối tượng có nơi ở cụ thể, rõ ràng, có cam đoan không tiếp tục phạm tội, đảm bảo có mặt khi cơ quan Công an yêu cầu và không gây cản trở, khó khăn trong quá trình điều tra tiếp theo, cơ quan điều tra có thể cho tại ngoại về địa phương. Việc làm này đã tạo một “phản ứng dây chuyền”, bởi vì đặc điểm tâm lý của các đối tượng phạm tội, các đối tượng truy nã thường có xu hướng liên hệ với nhau trong quá trình lẩn trốn. Chính họ biết rõ nhất các đối tượng khác thực hiện hành vi phạm tội như thế nào, các đối tượng truy nã đang trốn ở đâu, diễn biến tâm lý, tư tưởng, tâm tư nguyện vọng ra sao… để qua đó áp dụng các biện pháp vận động, tác động tâm lý cho phù hợp.
Bốn là: Công tác tuyên truyền vận động phải thực hiện một cách kiên trì, thường xuyên thì mới đạt được hiệu quả.
Đồng bào các dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống ở vùng núi cao, cách xa trung tâm, địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn. Với phương châm “mưa dầm thấm lâu”, “cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt, cùng làm việc”, nếu không có sự cố gắng, kiên trì, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, vất vả và cả nguy hiểm của các cán bộ làm công tác tại địa bàn thì công tác bám địa bàn, bám dân để tuyên truyền, vận động, giáo dục và thuyết phục sẽ không đạt được hiệu quả./.

NGÔ HẢI - PTP3/CỤC CẢNH SÁT ĐTTP VỀ MA TÚY