Những điểm mới Luật phòng, chống ma túy (sửa đổi)

28/04/2021 | Article Rating

Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) so với Luật hiện hành có những điểm mới cơ bản sau đây:

1. Quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình, cộng đồng trong phòng, chống ma túy. Để phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống ma túy, chính sách Nhà nước về phòng, chống ma túy (Điều 3) đã quy định "Ưu tiên nguồn lực phòng, chống ma túy cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, khu vực biên giới và địa bàn phức tạp về ma túy. Cán bộ, chiến sĩ thuộc cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy, người làm công tác cai nghiện ma túy trong các cơ sở cai nghiện ma túy công lập được hưởng chế độ, chính sách ưu đãi phù hợp với tính chất nhiệm vụ, địa bàn hoạt động theo quy định của Chính phủ". Không quy định tội phạm ma túy là tệ nạn ma túy, tệ nạn ma túy là việc sử dụng trái phép chất ma túy, nghiện ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy mà chưa đến mức hoặc không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Bổ sung khái niệm người sử dụng trái phép chất ma túy, xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể, cai nghiện ma túy, cơ sở cai nghiện ma túy. Đồng thời quy định thêm các hành vi bị nghiêm cấm như: Chống lại hoặc cản trở việc xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể, xác định tình trạng nghiện ma túy, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện ma túy; hướng dẫn sản xuất, hướng dẫn sử dụng trái phép chất ma túy; quảng cáo, tiếp thị chất ma túy; kỳ thị người sử dụng trái phép chất ma túy, người cai nghiện ma túy, người sau cai nghiện ma túy.

2. Bổ sung quy định xác định rõ các cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm về ma túy thuộc Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát Biển, Hải quan và nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan này: "Trên cùng một địa bàn khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan thì cơ quan phát hiện trước có trách nhiệm xử lý theo thẩm quyền do pháp luật quy định; trường hợp vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình thì chuyển giao hồ sơ, người, tang vật vi phạm pháp luật cho cơ quan có thẩm quyền chủ trì giải quyết" (Khoản 4, Điều 11). Không quy định hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan này, bởi vì các hoạt động này đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Công an nhân dân, Luật Biên phòng, Luật Cảnh sát Biển, Luật Hải quan.

3. Các quy định về kiểm soát các hoạt động hợp pháp đã được cụ thể (Chương III), trong đó bổ sung các hoạt động "Nghiên cứu, kiểm nghiệm, kiểm định, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập", các loại thuốc tiền chất, nguyên liệu làm thuốc là dược chất gây nghiện, dược chất hướng thần, thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất để nâng cao hiệu quản công tác kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, qua đó góp phần ngăn chặn, phòng ngừa đối với tội phạm sản xuất ma túy tổng hợp.

4. Trong quá trình xây dựng Luật có nhiều ý kiến đề nghị khôi phục lại Điều 199 "Tội sử dụng trái phép chất ma túy" Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, xem xét ở nhiều khía cạnh và để phù hợp với xu thế của quốc tế hiện nay thì việc quy định Tội sử dụng trái phép chất ma túy tại thời điểm này là chưa phù hợp. Thể chế hóa Chỉ thị 36 "có chế tài nghiêm khắc hơn đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy", Luật Xử lý vi phạm hành chính đã quy định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với "Người từ đủ 14 tuổi trở lên đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy". Luật Phòng, chống ma túy quy định Chương mới "Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy" (Chương IV, từ Điều 22, đến Điều 26). Người sử dụng trái phép chất ma túy là người có hành vi sử dụng chất ma túy mà không được sự cho phép của người hoặc cơ quan chuyên môn có thẩm quyền và xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể có kết quả dương tính (Khoản 10 Điều 2). Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy quy định trong Luật phòng, chống ma túy không phải là biện pháp xử lý hành chính, được áp dụng ngay từ lần đầu sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn quản lý là 01 năm kể từ ngày Chủ tịch UBND cấp xã ra quyết định quản lý. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kết quả xét nghiệm dương tính của người cư trú tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm ra quyết định và tổ chức quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú tại địa phương. Việc quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy là quá trình tư vấn, động viên, giáo dục, giúp đỡ người sử dụng trái phép chất ma túy không tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy, ngăn chặn họ có hành vi gây mất trật tự an toàn xã hội, trong thời gian quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy phải chấp hành việc xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể. Quy định cụ thể trách nhiệm của người sử dụng trái phép chất ma túy, của gia đình, cơ quan, tổ chức, cộng đồng nơi họ làm việc, sinh sống. Việc dừng quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy được áp dụng trong các trường hợp: Người sử dụng trái phép chất ma túy được xác định là người nghiện ma túy; bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; thi hành án phạt tù; chết, bị Tòa án tuyên bố là mất tích. Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch UBND cùng cấp lập danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy cư trú tại địa phương. Đưa ra khỏi danh sách người sử dụng trái phép chất ma túy đối với các trường hợp dừng quản lý và người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển đi cư trú ở địa phương khác. Khi người sử dụng trái phép chất ma túy thay đổi nơi cư trú thì Công an cấp xã nơi chuyển đi có trách nhiệm thông báo cho Công an cấp xã nơi chuyển đến trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày người sử dụng trái phép chất ma túy chuyển khỏi địa phương để đưa vào danh sách và tiếp tục quản lý. Luật giao Chính phủ quy định chi tiết quy định Quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy.

5. Về công tác cai nghiện: Các quy định về công tác cai nghiện đã được sửa đổi một cách căn bản, hoàn thiện hơn. Khái niệm về người nghiện vẫn được giữ nguyên như quy định cũ "Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này" (khoản 12 Điều 2), như vậy đã thể hiện rõ người nghiện không phải là người bệnh. Bổ sung khái niệm "Cai nghiện ma túy là quá trình thực hiện các hoạt động hỗ trợ về y tế,  tâm lý, xã hội, giúp người nghiện ma túy dừng sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, phục hồi thể chất, tinh thần, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi để chấm dứt việc sử dụng trái phép các chất này", "Cơ sở cai nghiện ma túy là cơ sở được thành lập để thực hiện đầy đủ quy trình cai nghiện theo quy định của Luật này, bao gồm cơ sở cai nghiện ma túy công lập và cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện". Với quan điểm nhân đạo của Đảng, cũng như phù hợp với xu hướng quốc tế, Luật phòng, chống ma túy quy định theo hướng ưu tiên cho người nghiện được lựa chọn hình thức cai nghiện tự nguyện, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; quy định cụ thể các trường hợp xác định tình trạng nghiện (Điều 27), các đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng cụ thể, phù hợp với thực tiễn (Điều 32), cụ thể:

"1. Người nghiện ma túy không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt cai nghiện ma túy tự nguyện;

2. Trong thời gian cai nghiện ma túy tự nguyện bị phát hiện sử dụng trái phép chất ma túy;

3. Người nghiện ma túy chất dạng thuốc phiện không đăng ký, không thực hiện hoặc tự ý chấm dứt điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế hoặc bị chấm dứt điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế do vi phạm quy định về điều trị nghiện;

4. Trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy mà tái nghiện".

 Quy định cụ thể Quy trình cai nghiện ma túy (Điều 29), hỗ trợ kinh phí đối với người cai nghiện tự nguyện. Duy trì biện pháp cai nghiện tại gia đình, cộng đồng, nhưng có đổi mới cách thức để đảm bảo tính khả thi. Việc cai nghiện tại gia đình, cộng đồng được thực hiện với sự hỗ trợ chuyên môn của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ cai nghiện ma túy, sự phối hợp, trợ giúp của gia đình, cộng đồng và chịu sự quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã (Điều 30), không quy định biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng. Quy định cụ thể các trường hợp và trình tự thủ tục lập hồ sơ đưa người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Để đảm bảo quyền trẻ em, cơ sở cai nghiện phải đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho họ, trong hồ sơ đề nghị thì Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội phải nêu ý kiến về bảo vệ quyền trẻ em. Quy định cụ thể về cơ sở cai nghiện công lập, cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện, trong đó đáng lưu ý là chỉ cơ sở cai nghiện ma túy công lập được thực hiện biện pháp cai nghiện bắt buộc. Đối với người đã hoàn thành cai nghiện ma túy tự nguyện, người đã hoàn thành điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu sự quản lý sau cai nghiện ma túy tại nơi cư trú trong thời hạn 01 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định; người đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chịu sự quản lý sau cai nghiện ma túy tại nơi cư trú trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định, không quy định quản lý sau cai tại cơ sở cai nghiện. Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã lập danh sách người nghiện ma túy, người bị quản lý sau cai. Đối với người Việt Nam bị nước ngoài trục xuất về nước do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy hoặc nghiện ma túy thì khi về nước phải xác định tình trạng nghiện, trường hợp xác định là nghiện ma túy thì thực hiện các biện pháp cai nghiện. Người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam nếu nghiện ma túy thì phải đăng ký cai nghiện tự nguyện tại các cơ sở cai nghiện và trả toàn bộ chi phí.

Quy định cụ thể việc lập danh sách người nghiện, người bị quản lý sau cai. Việc lập danh sách này do Công an cấp xã giúp UBND cùng cấp thực hiện. Trong đó quy định về việc đưa ra khỏi danh sách người nghiện, cụ thể các trường hợp: (1) trong thời hạn quản lý sau cai không phát hiện người đó sử dụng trái phép chất ma túy, (2) người nghiện, người bị quản lý sau cai phải thi hành án phạt tù, (3) người nghiện, người bị quản lý sau cai chuyển đến cư trú ở địa phương khác, (4) người nghiện, người bị quản lý sau cai chết, bị Tòa án tuyên bố mất tích. Bổ sung nội dung này giúp cho việc thống kê người nghiện được chính xác, phục vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước đối với người nghiện.

6. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy. Trong đó quy định trách nhiệm cụ thể một số bộ có chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy, gồm: Bộ Công an, Bộ Lao động thương binh và Xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Tài chính. Bộ Công an là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống ma túy. Đối với các bộ khác việc thực hiện chức năng về phòng, chống ma túy được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức chính phủ, theo chức năng, nhiệm vụ của bộ được phân công. Hợp tác quốc tế không quy định về việc tương trợ tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm ma túy bởi vì nội dung này đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Tương trợ tư pháp. Nhà nước Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế, hợp tác quốc tế đa phương và song phương trong phòng, chống ma túy trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi.

7. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2022, trong đó có các quy định chuyển tiếp, cụ thể như sau:

"Điều 55. Quy định chuyển tiếp

1. Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành:

a) Người đang thực hiện cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình, cộng đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện thì tiếp tục thực hiện cai nghiện ma túy tự nguyện đến hết thời hạn đã đăng ký theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 và bị quản lý sau cai nghiện ma túy theo quy định của Luật này;

b) Người đang bị quản lý sau cai nghiện ma túy thì tiếp tục chấp hành quyết định quản lý sau cai nghiện ma túy đến hết thời hạn quản lý sau cai nghiện theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12. Trường hợp người đang trong thời gian quản lý sau cai nghiện ma túy đủ 18 tuổi kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà tái nghiện thì áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

c) Người đang chấp hành quyết định cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 thì được đăng ký cai nghiện tự nguyện theo quy định của Luật này. Thời gian đã chấp hành quyết định cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng được tính vào thời hạn cai nghiện ma túy tự nguyện;

d) Người thuộc trường hợp phải đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 đang trong quá trình lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì thực hiện việc cai nghiện ma túy theo quy định của Luật này;

đ) Giấy phép liên quan đến hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy đã được cấp tiếp tục được sử dụng đến hết thời hạn ghi trên giấy phép. 

 2. Trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc được thành lập theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 phải đáp ứng đủ điều kiện của cơ sở cai nghiện ma túy công lập theo quy định của Luật này.

Các cơ sở khác về cai nghiện ma túy theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 16/2008/QH12 đã được cấp giấy phép hoạt động trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành được tiếp tục hoạt động cho đến khi hết thời hạn của giấy phép".

Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi) được Quốc hội thông qua đã cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời, khắc phục những khó khăn bất cập trong thực hiện công tác phòng, chống ma túy những năm qua, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy trong thời gian tới và huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, Nhân dân và cộng đồng quốc tế trong công tác phòng, chống ma túy./.

Trung tá, Thạc sỹ Hoàng Văn Hiều

Phó Trưởng phòng 2, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy