Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là BLHS 2015) được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 109/2015/QH13 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật này, các cơ quan hữu quan đã phát hiện và phản ánh về một số sai sót kỹ thuật, một số quy định chưa hợp lý hoặc khó áp dụng trong Bộ luật. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban Tư pháp của Quốc hội chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan hữu quan khác tiến hành rà soát tổng thể các quy định của BLHS 2015 để phát hiện những sai sót và đề xuất phương án khắc phục nhằm đảm bảo áp dụng thống nhất BLHS 2015 trong thực tiễn. Sau khi tổng hợp kết quả rà soát của các cơ quan, ban ngành, ngày 29/6/2016, Quốc hội khóa XIII ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLHS 2015; đồng thời bổ sung dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS 2015 vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 để trình Quốc hội khóa XIV tại kỳ họp thứ hai.
Với quan điểm sửa đổi, bổ sung BLHS lần này không chỉ chỉnh sửa những lỗi kỹ thuật mà cần khắc phục triệt để những điểm chưa hợp lý, thậm chí có thể sửa đổi căn bản, toàn diện Bộ luật nếu cần thiết và phù hợp. Trên tinh thần đó, tôi xin nêu ra một số vấn đề trong việc sửa đổi, bổ sung một số điều Chương XX- Các tội phạm về ma túy- BLHS năm 2015.
Thứ nhất, về việc bổ sung cây có chứa chất ma túy mới xuất hiện vào BLHS 2015:
Các ý kiến đều thống nhất cao về việc bổ sung cây có chứa chất ma túy mới xuất hiện ở nước ta vào BLHS năm 2015 để có cơ sở xử lý. Tuy nhiên, phương án bổ sung cụ thể thì còn có 02 quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, trước mắt chỉ nên bổ sung lá cây Khat – một loại lá mới xuất hiện ở Việt Nam có nguồn gốc từ Châu Phi hoặc Trung Đông. Ngoài ra không nên có quy định quét “cây khác có chứa chất ma túy” vì quy định rộng như vậy dễ có nguy cơ bị lợi dụng, xử lý tràn lan.
Quan điểm thứ hai cho rằng, ngoài việc bổ sung cụ thể lá cây Khat thì cũng cần bổ sung quy định mang tính dự báo là “cây khác có chứa chất ma túy” để tạo điều kiện linh hoạt, thuận lợi trong việc xử lý tội phạm khi phát hiện một loại cây mới có chứa chất ma túy mà không cần phải sửa đổi, bổ sung BLHS.
Tôi đồng ý với quan điểm đưa quy định quét “cây khác có chứa chất ma túy” vào luật. Sau khi quy định này được thông qua, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định quy định danh mục cây có chứa chất ma túy cụ thể. Theo đó, không phải tất cả các cây có chứa chất ma túy chúng ta đều xử lý hình sự mà chỉ những loại cây nào thuộc danh mục này và đối với mỗi loại cây thì chỉ những bộ phận nào đó (lá, rễ, thân, cành, hoa, quả…) chứa hàm lượng chất ma túy nhất định mới được tính là cây có chứa chất ma túy. Ví dụ theo BLHS 2009 thì không phải toàn bộ các bộ phận của cây cần sa, cây coca, cây thuốc phiện được tính là cây có chứa chất ma túy mà chỉ “lá, hoa, quả cây cần sa; lá cây coca; quả thuốc phiện” được tính trọng lượng để định khung hình phạt. Quy định quét như vậy vừa đảm bảo tính chặt chẽ là khi có loại cây có chứa chất ma túy mới xuất hiện cần xử lý hình sự thì chúng ta không cần phải sửa đổi, bổ sung luật mà chỉ cần đề xuất Chính phủ bổ sung vào danh mục cây có chứa chất ma túy là có thể xử lý được. Chúng ta cũng không lo tất cả các loại cây có chứa chất ma túy sẽ bị xử lý hình sự tràn lan mà chỉ những cây nào thuộc danh mục do Chính phủ quy định mới bị xử lý.
Về quan điểm bổ sung lá cây Khat vào BLHS cùng điểm với “lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa”: Lá Khat, còn có tên catha, là một loại cây có hoa được trồng nhiều ở vùng Sừng châu Phi, bán đảo Ả Rập, Trung Đông. Theo kết quả giám định của Viện khoa học hình sự thì trong lá Khat có thành phần chất ma túy Cathinone, một chất kích thích giống ma túy tổng hợp Amphetamine và thuộc danh mục I quy định tại Nghị định 82/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành danh mục các chất ma túy và tiền chất. Lá Khat mới được phát hiện gần đây ở Việt Nam chủ yếu dưới dạng tạm nhập, tái xuất đi nước thứ 3 với khối lượng lớn. Trong thời gian từ tháng 4/2016 đến tháng 6/2016, Cục C47 phối hợp với Cục Hải quan thành phố Hà Nội, Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, thu giữ 3,7 tấn lá cây “Khat” được gửi qua đường hàng không, đường bưu điện từ nước ngoài vào Việt Nam để chuyển đi nước thứ ba. Thủ đoạn của chúng là nhập khẩu thảo mộc sấy khô từ Etiopia, Kenya, Nam Phi tập kết về Việt Nam sau đó tìm cách chuyển sang các nước khác (Úc, Hà Lan, Mỹ) qua đường hàng không, bưu chính quốc tế, hoặc dưới dạng quà biếu để chuyển vào Việt Nam. Các đối tượng dùng thủ đoạn lợi dụng các Công ty có chức năng xuất, nhập khẩu để tạm nhập, tái xuất số lượng lớn lá cây “Khat”. Quá trình nhập – xuất khẩu lá cây “Khat” được khai báo là chè xanh, chè đen, hoặc “lá henna” đã sấy khô dùng chế tạo mỹ phẩm, “mực xăm henna”... để tránh sự kiểm soát của các cơ quan chức năng. Đến nay, cơ quan chức năng Việt Nam chưa phát hiện ra vụ việc nào liên quan đến việc sử dụng, lạm dụng lá Khat tại Việt Nam. Các tài liệu liên quan đến tác hại của lá Khat có rất nhiều ở trên mạng internet, báo chí, truyền hình: Có tài liệu nói ở Châu Phi người ta trồng rộng rãi như trồng rau, được bán công khai và sử dụng như người Việt Nam nhai trầu hoặc đun thành nước uống như cafe để tạo hưng phấn ở mức độ vui vẻ bình thường; có tài liệu thì nói lá “Khat” có thành phần chất ma túy Cathinone, một chất kích thích giống ma túy tổng hợp Amphetamine nhưng có tác dụng nhanh hơn (khoảng 15 phút sau khi nhai, so với 30 phút nếu dùng Amphetamine), có mức độ nguy hiểm hơn ma túy đá gấp nhiều lần và độc hại hơn các loại ma túy thông thường hàng trăm lần. Chất này khi sử dụng dẫn tới ảo giác, hoang tưởng, rối loạn, tâm thần, có hành vi bất thường, cực đoan, bạo lực, muốn tự tử.... Nhưng nguồn của các tài liệu này thì không chính thống hoặc được trích từ báo nước ngoài. Đến nay ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu hay hội thảo khoa học nào về tác hại của lá cây Khat. Ngoài lá cây Khat ra thì các bộ phận khác của cây Khat như rễ, thân, cành... có chứa chất Cathinone không? hàm lượng là bao nhiêu? mức độ tác hại cụ thể như thế nào để quy định hình phạt cho phù hợp? Như vậy, đến nay, chúng ta mới chỉ biết tác hại của lá Khát chủ yếu qua truyền thông chứ chưa có cơ sở khoa học cụ thể. Qua tìm hiểu thực tế nhiều nước đã có sự xuất hiện lá Khat từ lâu nhưng họ vẫn chưa quy định xử lý hình sự đối với loại lá này. Ví dụ như nếu chúng ta đưa lá cây Khat vào BLHS cùng điểm với “lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa” như Dự thảo ngày 22/9/2016 thì với khối lượng tang vật cho các tội vận chuyển, mua bán trái phép lá Khát từ 75 kg trở lên, các đối tượng sẽ phải chịu hình phạt là “tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Như vậy những đối tượng liên quan đến những vụ việc mà gần đây cơ quan chức năng phát hiện có khối lượng tang vật hàng tấn sẽ phải chịu mức hình phạt cao nhất trong khi các nước chưa quy định xử lý hình sự.
Với quan điểm chủ động phòng ngừa, tấn công quyết liệt và xử lý nghiêm khắc với tội phạm ma túy nhưng chúng ta cũng phải đảm bảo yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong xây dựng pháp luật. Do đó, trước khi đưa vào luật chúng ta cần phải cân nhắc hết sức thận trọng vì hình phạt đối với tội phạm này rất nghiêm khắc. Chúng ta cần có cơ sở khoa học cụ thể về tác hại của cây Khat nói chung và lá cây Khat nói riêng trước khi quy định cụ thể trong BLHS.
Vì những lý do trên, theo quan điểm cá nhân tôi, thời điểm này, ngoài các loại cây có chứa chất ma túy truyền thống: cây thuốc phiện, cây coca, cây cần sa, chúng ta chỉ nên quy định chung trong BLHS là “các cây khác có chứa chất ma túy”. Quy định như vậy vừa chặt chẽ, vừa có tính răn đe, phòng ngừa nhưng cũng đảm bảo tính linh hoạt cho BLHS.
Thứ hai, về việc quy định liên quan đến vấn đề xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự:
Liên quan đến vấn đề này có 03 quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, nên quy định xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy đối với mọi trường hợp phạm tội về ma túy. Theo tôi, quy định này có thể đảm bảo được yếu tố công bằng theo hướng hình phạt tương ứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi (lượng tinh chất ma túy) nhưng về mặt chủ quan của tội phạm thì lại chưa công bằng vì hầu hết tội phạm ma túy không quan tâm hoặc không cần biết về hàm lượng chất ma túy mình phạm tội nên cùng phạm tội với số vật chứng như nhau nhưng vì hàm lượng khác nhau nên sẽ chịu hình phạt sẽ khác nhau. Hơn nữa, quy định này chưa khả thi trong thực tế, các đơn vị giám định được hàm lượng các chất ma túy và mẫu chuẩn rất ít, nên không thể đáp ứng được yêu cầu giám định tất cả các vụ án ma túy do vậy, không đảm bảo yêu cầu về thời gian tố tụng cũng như nghiệp vụ trong giải quyết các vụ án ma túy. Luật hình sự các nước xung quanh ta cũng không có quy định này.
Quan điểm thứ 2 cho rằng để đảm bảo tính khả thi trong thực tế thì nên quy định theo hướng cần phải xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy tại các khoản của điều luật có quy định hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Theo tôi, quy định như vậy mang tính nửa vời và rất không công bằng. Ví dụ đối tượng A vận chuyển 30 gam heroin sẽ phạm vào khoản 3 – điều 250- BLHS năm 2015 và phải chịu hình phạt từ 15 năm đến 20 năm tù; đối tượng B vận chuyển 100 gam heroin sẽ phạm vào khoản 4 – điều 250- BLHS năm 2015 và phải chịu hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Theo quy định này thì vật chứng của B sẽ được giám định hàm lượng để quy ra khối lượng và nếu xác định hàm lượng thì là 29% thì B sẽ phải chịu hình phạt với khối lượng heroin là 29 gam, theo quy định sẽ rơi vào khoản 2 – điều 250- BLHS năm 2015 và phải chịu hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm. Như vậy một người vận chuyển số ma túy nhiều hơn lại được xử lý nhẹ hơn. Vô hình chung sẽ kích thích tội phạm vận chuyển heroin với khối lượng hơn 100 gam để được áp dụng hình phạt nhẹ hơn là vận chuyển 30 gam.
Quan điểm thứ 3 cho rằng để đảm bảo sự nhất quán và công bằng trong chính sách xử lý các trường hợp phạm tội về ma túy cần quy định việc không cần xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy trong các điều 248, 249, 250, 251, 252 và tiền chất ma túy trong điều 253 BLHS năm 2015 (như luật hình sự hiện hành của hầu hết các nước đang áp dụng). Theo tôi, quy định theo hướng này vừa đảm bảo tính khả thi dễ thực hiện trong thực tế nước ta hiện nay, vừa đảm bảo tính công bằng, nhất quán trong chính sách xử lý và về mặt chủ quan thì người phạm tội cũng cảm thấy hình phạt mình phải chịu là công bằng và thỏa đáng: người phạm tội với vật chứng lớn hơn sẽ phải chịu hình phạt nặng hơn. Quy định như vậy cũng đảm bảo được quyền con người trên khía cạnh quyền được đối xử công bằng và bình đẳng trước pháp luật. Các trường hợp cần thiết phải giám định hàm lượng như ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; xái thuốc phiện và thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần cũng cần được quy định cụ thể trong Luật. /.
Đại tá Nguyễn Ngọc Giao
Trưởng phòng Chuyên đề NVCB - Cục Cảnh sát ĐTTP về ma túy