Những năm qua do áp lực của tội phạm ma túy ở khu vực tam giác vàng liên tục gia tăng, mỗi năm khu vực này sản xuất 870 tấn ma túy các loại và 1,4 tỷ viên MTTH. Đồng thời do áp lực người nghiện ma túy ở Việt Nam luôn gia tăng, năm 2011 Việt Nam có 158.414 người nghiện ma túy thì năm 2014 qua tổng rà soát đã tăng lên 204.377. Công tác cai nghiện ít có hiệu quả, pháp luật về cai nghiện chặt chẽ, khó khăn cho công tác quản lý lập hồ sơ đưa người nghiện vào trung tâm. Mặc dù công tác phòng chống ma túy đã được Đảng, Chính phủ quan tâm, các ngành các cấp vào cuộc quyết liệt mỗi năm các lực lượng chức năng đã đấu tranh bắt giữ khoảng gần 30.000 đối tượng phạm tội ma túy, xét xử nghiêm minh nhưng tình hình tội phạm ma túy của Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp.
Trước tình hình tội phạm ma túy đang có xu hướng phức tạp, chống trả quyết liệt lại lực lượng chức năng. Ngày 17/9/2014 TANDTC có văn bản số 234 quy định “Về việc bắt buộc phải giám định các chất ma túy thu được, để lấy đó làm căn cứ kết tội bị cáo theo chương 18 – Bộ luật hình sự...” Sau khi công văn ra đời đã gây nhiều khó khăn, bỏ lọt tội phạm, ách tắc cho công tác điều tra, truy tố các vụ án ma túy. Nhiều địa phương đã có văn bản báo cáo giữa Ủy bản Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, liên ngành (Công an - Kiểm sát - Tòa án) Trung ương phản đối, nêu rất nhiều khó khăn:
- Từ khi văn bản 234 ra đời, tất cả các vụ án ma túy chưa giám định hàm lượng, Tòa án, Viện kiểm sát các cấp trả hồ sơ điều tra bổ sung khoảng 5000 vụ, trong đó Hà Nội: 924 vụ/1096 bị can, Thành phố Hồ Chí Minh: 1229 vụ/1829 bị can, dẫn đến công tác điều tra các vụ án bị ảnh hưởng, nhiều vụ án phải đình chỉ điều tra. Công tác đấu tranh với tội phạm ma túy giảm, kết quả bắt tội phạm ma túy năm 2015 giảm khoảng 25% so với năm 2014.
Mỗi năm Cơ quan điều tra bắt 19.000 vụ án về ma túy có khoảng 25.000 đến 30.000 mẫu gửi giám định, các địa phương chỉ giám định xác định loại ma túy và trọng lượng ma túy, việc giám định hàm lượng ma túy chỉ Trung tâm giám định ma túy của Bộ Công an và một số địa phương làm được, trong đó Cơ quan giám định ma túy của Bộ Công an mỗi năm giám định hàm lượng ma túy được khoảng 5000 - 5500 mẫu, không đáp ứng được. Mặc dù Bộ Công an đã đầu tư trang bị, phương tiện kỹ thuật, con người cho 10 trung tâm giám định ma túy. Việc giám định hàm lượng ma túy còn nhiều khó khăn vì giám định hàm lượng phải có các điều kiện: Máy sắc khí; Mẫu chuẩn mua của Liên hiệp quốc (hiện nay rất khó khăn) hoặc tự sản xuất mẫu; Kỹ sư hóa được đào tạo, tập huấn kỹ năng; Phòng thí nhiệm đảm bảo phương tiện, hóa chất cần thiết…
Ma túy hiện nay có rất nhiều loại (nhiều loại mới) nếu không có mẫu chuẩn thì không thể so sánh giám định hàm lượng, nhất là MTTH, tiền chất.
- Việc giám định hàm lượng tất cả các địa phương toàn quốc phải gửi mẫu về Trung tâm giám định ma túy của Bộ Công an tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, việc đi lại vận chuyển ma túy đi giám định gặp nhiều khó khăn, tốn kém. Đối với Công an huyện vùng sâu, vùng xa có huyện chỉ có 1 – 2 ĐTV điều tra án ma túy, mỗi vụ án thu được ma túy phải cử 1-2 điều tra viên mang mẫu về Trung tâm giám định thì rất khó khăn tốn kém tiền, thời gian đi lại chờ đợi.
Trước những khó khăn, bức xúc của dư luận, ngày 2/6/2015 Quốc hội đã có Nghị quyết số 76/2015/QH13 về tăng cường các biện pháp phòng chống oan sai, giao cho Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao phải sửa đổi bổ sung Thông tư 17 ngày 24/12/2007 của liên ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp và công văn 234 ngày 17/9/2014 về giám định hàm lượng ma túy.
Với sự nỗ lực của các ngành, ngày 14/11/2015 lãnh đạo liên ngành Trung ương: Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp đã ký thông tư liên tịch sửa đổi bổ sung Thông tư 17 ngày 24/12/2007 của liên ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp hướng dẫn một số quy định tại chương 18 “Các tội về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999. Nội dung cụ thể là:
“Tại điểm 2, điều 1: quy định trong mọi trường hợp khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại (loại ma túy gì) và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được. Bắt buộc phải trưng cầu giám định hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy trong các trường hợp sau:
a. Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch;
b. Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng;
c. Xái thuốc phiện;
d. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần;
Ngoài các trường hợp quy định tại các điểm a,b,c và d tiết 1.4 Mục này, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật.
Nếu chất được giám định không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, nhưng người thực hiện hành vi phạm tội ý thức rằng chất đó là chất ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy.
Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi…thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 139 Bộ luật hình sự, nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội này.
Trường hợp không thu giữ được vật chứng là chất ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy, tiền chất mà người phạm tội đã mua bán, vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người phạm tội truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh và điều khoản tương ứng”.
Thông tư có hiệu lực từ ngày 30/12/2015, hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo quy định của Thông tư liên tịch số 08 thì:
- Khi giải quyết các vụ án về ma túy, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ trưng cầu giám định để xác định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được. Việc bắt buộc trưng cầu giám định hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy chỉ trong các trường hợp a, b, c và d nêu trên.
- Trong giai đoạn xét xử vụ án về ma túy “nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết” thì “Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật” mà không trả lại hồ sơ của Viện kiểm sát nhân dân các cấp để điều tra bổ sung, cũng như không coi đây là căn cứ hủy án để điều tra lại và không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát.
Do vậy, ngoài 04 trường hợp nêu trên, nếu Tòa án nhân dân các cấp trả hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân chỉ với lý do yêu cầu giám định hàm lượng chất ma túy để xác định trọng lượng tinh chất ma túy thì Viện kiểm sát nhân dân các cấp không nhận hồ sơ, tiếp tục đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử và thực hiên theo đúng quy định của pháp luật.
Thông tư ra đời đã tháo gỡ được khó khăn, được sự đồng tình của dư luận nhân dân, tạo điều kiện tích cực cho công tác phòng chống tội phạm ma túy. Từ nay đến khi Thông tư có hiệu lực pháp luật để tránh khuynh hướng các cơ quan pháp luật chạy đua thời hạn hiệu lực của văn bản xử nhanh, xử nhẹ các hành vi phạm tội về ma túy theo Công văn 234 của Toà án nhân dân tối cao. Đề nghị các ngành, các cấp có chỉ đạo quán triệt chấn chỉnh tư tưởng nêu trên ./.
Đại tá Phạm Văn Chình
Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy